Phát biểu tạo Tọa đàm, Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Kim Anh nhấn mạnh, việc thúc đẩy sự phát triển thị trường mua bán nợ tại Việt Nam sẽ hỗ trợ rất lớn cho hoạt động xử lý nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng.
Đặc biệt, trong bối cảnh kinh tế thế giới giai đoạn tới được dự báo diễn biến khó lường, tác động tiêu cực từ đại dịch COVID-19 và những bất ổn về chính trị và xung đột vũ trang ở một số khu vực trên thế giới ảnh hưởng đến tình hình tài chính của nhiều doanh nghiệp, làm suy giảm khả năng trả nợ của khách hàng vay, nên nợ xấu của các tổ chức tín dụng có nguy cơ tiếp tục tăng trong thời gian tới.
Chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 được phê duyệt theo Quyết định 986/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã chỉ rõ mục tiêu đưa “Nợ xấu của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng dưới 3% vào năm 2025“.
Nguồn cung của thị trường khá dồi dào bởi dư nợ đến hết tháng 9/2022 là 11,6 triệu tỷ đồng, 134% GDP. Nợ xấu nội bảng theo Ngân hàng Nhà nước hiện khoảng 1,7% và nợ xấu gộp khoảng 5,41% có thể tăng lên trong năm 2023.
“Do đó, việc thúc đẩy sự phát triển thị trường mua bán nợ tại Việt Nam sẽ hỗ trợ rất lớn cho hoạt động xử lý nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng”, Phó Thống đốc Nguyễn Kim Anh nói.
Mặc dù vậy, lãnh đạo NHNN thừa nhận, thị trường mua bán nợ Việt Nam về cơ bản vẫn còn khá sơ khai, còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Nguyên nhân là do khung pháp lý cho hoạt động thị trường mua bán nợ chưa thống nhất, bất cập, thiếu và yếu; thị trường chưa thu hút được đa dạng chủ thể tham gia, dẫn đến số lượng chủ thể còn ít; hàng hóa trên thị trường mua bán nợ chưa đa dạng; kỹ thuật, phương pháp định giá khoản nợ còn thiếu tính thị trường…
Ông Nguyễn Tiến Đông, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng (VAMC) khẳng định, nhận thức rõ tầm quan trọng của thị trường mua bán nợ, những năm gần đây Quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xử lý nợ xấu, cũng như thúc đẩy sự phát triển của thị trường mua bán nợ. Tuy nhiên, quy mô của thị trường mua bán nợ Việt Nam so với một số nước trong khu vực như Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia… vẫn còn rất khiêm tốn.
“Ngoài vấn đề về khuôn khổ pháp lý cũng như công tác quản lý, giám sát và vận hành thị trường mua bán nợ, các đối tượng tham gia thị trường mua bán nợ còn ít; hàng hóa giao dịch trên thị trường mua bán nợ chưa đa dạng và mới chỉ chiếm tỉ trọng rất nhỏ trong số các khoản nợ xấu cần xử lý”, lãnh đạo VAMC nói.
TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia tài chính ngân hàng phân tích thêm, hiện tại pháp luật chỉ cho phép hai phương thức mua bán nợ là đàm phán trực tiếp và đấu giá. Điều này dẫn tới thiếu cơ sở định giá khoản vay và thiếu các cơ chế về công khai thông tin. Hơn nữa, sự thiếu chi tiết khiến hạn chế chủ thể tham gia thị trường.
Bên cạnh đó, thị trường mua bán nợ của Việt Nam hiện cũng rất thiếu các nhà môi giới chuyên nghiệp, định giá tài sản độc lập, các định chế tài chính khác như công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, quỹ hưu trí, công ty chứng khoán… và thị trường thứ cấp hầu như chưa có.
TS. Cấn Văn Lực nêu các kiến nghị đối với thị trường mua bán nợ tại Việt Nam:
Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý đồng bộ, trước mắt là nghị định về thị trường mua-bán nợ. Về lâu dài có thể xây dựng luật theo hướng bổ sung các chủ thể tham gia thị trường (tổ chức, cá nhân, định chế tài chính phi ngân hàng; nhà đầu tư tư nhân trong và ngoài nước…). Mở rộng phương thức mua-bán nợ (cho phép chứng khoán hóa), luật hóa Nghị quyết 42 trên cơ sở tiếp thu, chỉnh sửa những vướng mắc trong quá trình triển khai và nhu cầu thời gian tới.
Thứ hai, nhất quán, đồng bộ quy định việc tham gia của nhà đầu tư tư nhân (gồm cả nhà đầu tư nước ngoài) khi sửa Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản.
Thứ ba là đưa ra các giải pháp thúc đẩy sự phát triển của các chủ thể tham gia thị trường, cho phép thành lập Hiệp hội các doanh nghiệp mua bán nợ (dạng như LSTA của Mỹ…); tổ chức nhận ủy thác (trustee) cho nhà đầu tư nước ngoài, công ty định giá, tổ chức xếp hạng tín nhiệm, công ty môi giới..
Thứ tư, phát triển thị trường thứ cấp, tăng tính thanh khoản (nghiên cứu thành lập công ty tái cho vay thế chấp). Ngoài ra, cần phát triển hạ tầng tài chính (thông tin-dữ liệu, kế toán, kiểm toán, thanh toán bù trừ, định hạng tín nhiệm…); đẩy nhanh tiến trình cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp nhà nước.
“Cần sớm tăng năng lực tài chính cho VAMC, theo Nghị quyết 42, năm 2018 vốn điều lệ của VAMC là 5.000 tỷ đồng; đến năm 2020 vốn điều lệ nâng lên là 10.000 tỷ đồng”, TS. Cấn Văn Lực nhấn mạnh.
Anh Minh
(Theo baochinhphu.vn)